Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ

Vào mùa xuân năm 1776, người Mỹ đã ở trong chiến tranh một năm. Ngày càng nhiều người bị thuyết phục rằng họ đang chiến đấu để được tư do mãi mãi khỏi sự thống trị của nước Anh, và đã đến lúc đưa ra một tuyên ngôn độc lập.

Vào tháng một, Thomas Pain xuất bản cuốn sách Common Sense, thứ đã giúp nhiều người dân thuộc địa quyết định yêu cầu độc lập. Vào tháng bảy, Quốc Hội thuộc địa bổ nhiệm 5 người vào uỷ ban để soạn thảo tuyên ngôn. Ủy ban chọn Thomas Jefferson viết bản thảo.

  • Common Sense được Thomas Paine viết vào đầu năm 1776 khi người dân ở thuộc địa còn đang tranh luận có nên độc lập khỏi nước Anh hay không. Nếu dưới quyền cai trị của Anh sẽ được Anh bảo vệ, mặt khác phải họ không thể tự quyết các vấn đề của mình và phải đóng thuế. Lúc này Common Sense ra đời, nó nêu bật thuận lợi và khả năng có thể tự chủ mạnh mẽ của thuộc địa, những bất cập của chế độ quân chủ Anh đối với một xã hội đang phát triển ở Mỹ. Ông cho rằng chính phủ là để dàn xếp tổ chức con người trong xã hội, điều mà chế độ quân chủ ở nước Anh xa xôi không thể thoả mãn bằng cách cai trị kiểu thuộc địa, thứ đã và đang diễn ra. Với lỗi viết dễ hiểu, tác phẩm được đón đọc rộng rãi và khiến lý lẽ của độc lập trở nên sáng tỏ.

Quốc hội thuộc địa sau đó tranh luận về tài liệu, gạch bỏ một đoạn dài chỗ Jefferson đổi lỗi cho nhà vua đã làm cho chế độ nô lệ thành hiện thực.

Vào tối ngày 4 tháng 7 năm 1776, quốc hội thông qua bản tuyên ngôn độc lập. Trong những tuần sau đó, bản tuyên ngôn được đọc rộng rãi đã chào đón bằng những tiếng reo hò cổ vũ và ăn mừng khắp cả nước.

Triết lý đằng sau bản tuyên ngôn
Thomas Jefferson đã dựa trên ý tưởng của các nhà tư tưởng chính trị vĩ đại, bao gồm cả John Locke của Anh. Vào năm 1688, Locke viết rằng, chính phủ là một hợp đồng hoặc sự thoả thuận giữa chính quyền và người dân; Nếu chính phủ không đáp ứng được hợp đồng đấy thì người dân có quyền thay đổi chính phủ hoặc tạo một chính phủ mới.

Thomas Jefferson: Tác giả chính của Tuyên ngôn Độc lập. Mặc dù được biết đến nhiều nhất với tư cách là một nhà lãnh đạo và nhà văn chính trị, nhưng sự tò mò của Jefferson đã đưa ông vào nhiều vai trò khác nhau: nông dân, luật sư, nhà khoa học, nhà phát minh, kiến trúc sư, nhà ngôn ngữ học, nhạc sĩ nghiệp dư và người sáng lập Thư viện Quốc hội. Sau khi chính phủ Hoa Kỳ được thành lập, ông giữ chức ngoại trưởng, phó tổng thống và giữ chức tổng thống hai nhiệm kỳ, từ 1801-1809. Năm 1803, ông mua bang Louisiana từ Pháp với giá 15 triệu đô la Mỹ, việc mua lại đã làm tăng gấp đôi diện tích đất nước và giúp mở rộng về phía tây.
Bất chấp những thành tựu của mình, Jefferson đã bị dày vò suốt cuộc đời vì không tìm ra giải pháp cho sự mâu thuẫn của chế độ nô lệ tồn tại trong một xã hội tự do. Ông qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1826, vào ngày kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ!

Suggested
Suggested contents and articles.
Suggested Contents
Hiến pháp Hoa Kỳ phân chia quyền lực như thế nào?
Vào tháng 5 năm 1787, 55 đại biểu từ 13 bang gặp ở toà nhà bang Philadelphia. Đó là cuộc gặp của những người đàn ông đặc biệt tài năng, bao gồm cả George Washington, người chịu trách nhiệm là chủ toạ. Thay vì cố gắng điều chỉnh Các điều
Hiệp định Paris (1783) – Kết thúc cách mạng Mỹ
HIỆP ĐỊNH PARIS VÀ SAU ĐÓCuộc Chiến Tranh Cách Mạng đã kết thúc sau sáu năm gian khổ, và mất thêm hai năm nữa để hoàn tất hiệp ước hoà bình chính thức. Người Anh không vội vã làm hài lòng người Mỹ, và họ hi vọng việc trì hoãn
Hoa Kỳ lập quốc
Mối quan hệ thân tình giữa Vương quốc Anh và các thuộc địa Mỹ trở nên xấu đi không lâu sau “cuộc chiến giữa Pháp và người da đỏ”. Vua Anh cần huy động tiền để chi trả cho chiến tranh và bù đắp chi phí bảo vệ và cai
Chế độ nô lệ xuất hiện
Khi các trang trại và khu công nghiệp thuộc địa phát triển, nhu cầu về công nhân tăng lên. Chế độ nô lệ đã tồn trại trên thế giới xuyên suốt lịch sử; Vào những năm 1600, người Châu Âu giới thiệu nó tới thế giới mới nhằm cung cấp
Comments
All comments.
Comments

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.